Liên cầu khuẩn nhóm A có thể khu trú ở đường hô hấp trên hoặc trên da, nhiễm liên cầu ngoài da hay gây viêm cầu thận mà thường ít khi gây thấp tim. RAA chiếm 2-3% trong nhiễm liên cầu nhóm A mà không được điều trị triệt để sẽ tiến triển thành thấp tim và có khoảng 50% số bệnh nhân đã bị thấp tim sẽ lại tái phát. Hiện nay RAA đã hầu như không còn ở miền Bắc Châu Âu, nhưng vẫn còn rải rác xung quanh Địa Trung Hải và là nguyên nhân hàng đầu của bệnh van tim ở người trẻ tuổi.
Đến nay đã có những bằng chứng rõ rệt về sự liên quan giữa liên cầu khuẩn tan máu β nhóm A gây ra bệnh cảnh thấp tim là thường có những đợt viêm nhiễm đường hô hấp trên, trước đó khoảng 3-4 tuần. Nhưng cũng có nhiều trường hợp khi đã biểu hiện rõ của bệnh thấp tim mà không thấy rõ triệu chứng nhiễm liên cầu khuẩn trước đó. Triệu chứng của bệnh không do vi khuẩn gây ra mà do đáp ứng miễn dịch quá mức của cơ thể đối với kháng nguyên gây bệnh.
Nguyên nhân gây bệnh là do liên cầu khuẩn tan huyết nhóm A týp M. Ngày nay người ta đã thấy trong màng tế bào liên cầu khuẩn nhóm A có một thành phần protein rất giống với protein màng tế bào cơ tim và một số tổ chức liên kết khác của cơ thể. Ngoài ra, cấu trúc cacbon hydrat màng tế bào liên cầu khuẩn nhóm A cũng giống mucoprotein ở van tim người. Vì vậy khi cơ thể sản xuất các kháng thể chống liên cầu khuẩn thì chúng tấn công luôn cả cơ tim và các tổ chức liên kết có thành phần protein tương tự. Đó chính là hiện tượng tự miễn.
Một tính chất quan trọng nữa là màng tế bào liên cầu khuẩn còn mang nhiều chất có độc tính với tế bào cơ tim, làm cho cơ tim biến đổi thành tự kháng nguyên và cơ thể sinh ra tự kháng thể. Phản ứng giữa tự kháng nguyên với tự kháng thể sẽ gây ra bệnh lý tổn thương cho cơ tim, màng trong tim, màng ngoài tim…Cho nên các nhà y học cho rằng bệnh thấp tim là bệnh nhiễm độc miễn dịch, hay gặp ở lứa tuổi từ 10 - 15 tuổi (64,5%), xuất hiện sau một đợt viêm họng cấp do liên cầu khuẩn nhóm A gây ra.
Kết quả điều trị dự phòng nhiễm liên cầu khuẩn đã làm giảm rõ rệt tỷ lệ bệnh thấp tim. Vai trò của Sulfadiazin, Penicillin, Erythromycin đã được đánh giá tốt trong điều trị dự phòng và làm giảm mức độ tái phát của bệnh. Một điều tra tỷ lệ bệnh nhân có viêm cơ tim khi có nhiễm liên cầu khuẩn lần đầu tiên ở Mỹ đã giảm rõ rệt khi có điều trị dự phòng.
Định lượng kháng thể kháng Streptolisin O (ASLO) thường dương tính ở những người có nhiễm liên cầu khuẩn. Nó có giá trị chẩn đoán và điều trị dự phòng. Tỉ lệ dương tính thường đạt từ 70% - 85%.
Những yếu tố thuận lợi cho nhiễm liên cầu khuẩn thường gặp là điều kiện sống khó khăn (khí hậu, sinh hoạt, sức đề kháng). Vì vậy, người ta cho đây là bệnh của các nước kém phát triển. Cho đến nay, bệnh vẫn khá thường gặp ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt nam.
Bệnh cảnh thường gặp ở trẻ 5 – 15 tuổi, ít gặp ở người dưới 5 tuổi, cũng ít gặp ở người trên 25 tuổi.
Nhiều nghiên cứu cho thấy sự tổn thương van hai lá ở nữ nhiều hơn nam giới trong bệnh thấp tim; trong khi đó thì sự tổn thương van động mạch chủ ở nam do thấp tim lại cao hơn ở nữ.
Những di chứng tại van tim là nguyên nhân chính của bệnh tim mắc phải, gây tử vong cho trẻ em 5 - 15 tuổi, làm mất sức lao động của những người trưởng thành.
Việc phòng bệnh thấp tim là vô cùng quan trọng bởi vì liên cầu khuẩn có thể khu trú ở đường hô hấp trên hoặc trên da và dễ lây nhiễm.
Cần chú ý biện pháp tuyên truyền để người dân biết lợi ích của việc điều trị viêm họng cho trẻ cũng như hậu quả tai hại của bệnh van tim do thấp đối với trẻ, phổ biến giáo dục sức khỏe cho trẻ giữ vệ sinh, giữ ấm tránh nhiễm lạnh, nâng cao thể chất, khi có dấu hiệu viêm đường hô hấp trên cần điều trị sớm và triệt để, một khi phát hiện trẻ có những biểu hiện đau khớp thì cần đưa ngay trẻ đến khám tại các cơ sở y tế.
Phòng thấp cấp I (phòng tiên phát): là phải phát hiện thật sớm và điều trị kịp thời viêm họng do liên cầu, nhằm loại trừ ngay sự nhiễm liên cầu khuẩn, giải quyết các yếu tố thuận lợi gây nhiễm liên cầu khuẩn. Trường hợp đã phát hiện ra nhiễm liên cầu thì cần dùng ngay Penicillin là thuốc được lựa chọn hàng đầu; dùng Benzathyl penicillin G 1,2 triệu đv, tiêm bắp 4 tuần/1 lần hoặc Penicillin V 250.000 đv x 2 lần/ngày x 10 ngày (theo Hội tim mạch Hoa kỳ và Tổ chức YTTG khuyến cáo), nếu bệnh nhân dị ứng với penicillin thì thay thế bằng Erythrommycin uống trong 10 ngày.
Phòng thấp cấp II (phòng tái phát): là phòng cho những bệnh nhân đã bị thấp tim và phải bắt đầu ngay khi được chẩn đoán thấp tim, khi đó phải chú ý tuân thủ chế độ điều trị dự phòng thấp tim một cách nghiêm ngặt để dự phòng thứ phát. Khuyến cáo dùng thuốc bằng đường tiêm vì tỷ lệ tái phát thấp tim ở bệnh nhân dùng đường uống cao hơn đường tiêm nhiều, tiêm Penicillin dự phòng một tháng một lần theo chỉ dẫn của thầy thuốc (thuốc như trong phòng thấp cấp I). Các tác giả thống nhất phải điều trị dự phòng thứ phát, ít nhất 5 năm sau đợt điều trị tấn công. Thời gian điều trị dự phòng còn phụ thuộc vào lứa tuổi và cơ địa của từng bệnh nhân. Nếu thấp tim chưa có di chứng van tim thì thời gian dự phòng ít nhất là 5 năm, tốt nhất đến năm 18 tuổi; còn với thể tổn thương nặng ở tim có di chứng van tim thì nên phòng kéo dài suốt đời (khuyến cáo phòng tái phát ít nhất đến năm 45 tuổi).
Dự phòng phải thật kiên trì và tuân thủ theo yêu cầu của Bác sỹ, cần thiết và tôn trọng chế độ phòng thấp tim cấp II, tiêm (hoặc uống) thật đều đặn để dự phòng các đợt thấp tái phát và theo dõi tim mạch định kỳ