- Lẫn lộn S và X
Mẹo kết hợp âm đệm:
S không đi với các vần oa, oă, oe, uê, chỉ có X là đi với các vần này.
Ví dụ: Xoa tay, xoay xở, cây xoan, xoắn lại, tóc xoăn, xòa tay, xoen xoét, xuề xòa, xuyên qua… (Có các trường hợp ngoại lệ như soát trong rà soát, kiểm soát…, soạn trong soạn bài và những trường hợp điệp âm đầu trong từ láy: suýt soát, sột soạt, sờ soạng…)
Mẹo láy âm:
Chỉ có X mới láy âm với các âm đầu khác, còn S không có khả năng này.
Ví dụ như: Bờm xơm, bờm xờm, lao xao, lòa xòa, liêu xiêu, loăn xoăn, liểng xiểng, lộn xộn, lì xì, xoi mói, xích mích…
Mẹo từ vựng:
Tên các thức ăn và đồ dùng liên quan đến việc nấu nướng, ăn uống thường viết với X.
Ví dụ như: Xôi, xa lat, lạp xường, xúc xích, cái xanh, cái xoong, cái xiên nướng thịt…
Hầu hết các danh từ còn lại viết với S. Chặng hạn như: Ông sư, bà sãi, cây sen, cây sim, cây sồi, cây sung, cái sọt, sợi dây, sao, sương giá, sông, suối, sấm, sét… (Có các trường hợp ngoại lệ: Chiếc xe, cái xuồng, cây xoan, cây xoài, trạm xá, xương, cái túi sách hay cái xắc, cái xẻng, mùa xuân…)
- Lẫn lộn L và N
Đây là lỗi khá phổ biến ở ngoại thành Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ nói chung. Sự lẫn lộn về mặt từ vựng đã khiến nhiều trường hợp trong khi nói và viết đã nhầm lẫn giữa L và N. Để khắc phục lỗi này, ta có các mẹo sau:
Mẹo về âm đệm:
L có thể đứng trước âm đệm, còn N thì không.
Theo thống kê, các vần có âm đệm trong tiếng Việt là oa, oă, uâ, oe, uê, uy. Vì vậy, chỉ cần nhớ câu sau “Ngoa ngoắt Tuấn khoe quê Thúy” để nhận biết vần có âm đệm là có thể áp dụng mẹo này.
Theo mẹo này, ta có thể yên tâm viết: lòa xòa, cái loa,loắt choắt, loăn quăn, luẩn quẩn, lí luận, quần loe, lóe sáng, luyến tiếc, luyện tập, lũy thừa, liên lụy…
Mẹo này có một ngoại lệ: noãn nghĩa là trứng chỉ dùng trong hai từ Hán Việt là noãn cầu và noãn sào.
Mẹo láy âm:
Khi ở vị trí thứ nhất trong một từ láy âm, L có thể láy âm với các âm đầu khác, còn N thì không có khả năng này.
Vậy, nếu gặp một tiếng không rõ viết với L hay N, ta hãy thử tạo một từ láy âm phụ âm đầu. Nếu tiếng đó có thể đứng trước thì nó được viết với L.
Sau đây là một số ví dụ về khả năng láy phụ âm đầu rất rộng rãi của L:
- L láy với B: lắp bắp, lõm bõm, lạch bạch, lấn bấn, lu bù…
- L láy với C (K, Q): la cà, lục cục, lấn cấn, lẩm cẩm, luẩn quẩn, loăng quăng…
- L láy với D: lở dở, lim dim, lai dai…
- L láy với Đ: lốm đốm, lục đục, lờ đờ, lao đao, long đong, lênh đênh…
- L láy với H: lúi húi, loay hoay…
- L láy với M: lơ mơ, liên miên, lễ mễ, lan man, lề mề…
- L láy với X: lao xao, lăng xăng, loăn xoăn, lèo xèo…
- L láy với T: le te, lon ton, lách tách, lung tung, lả tả…
- L láy với R: lai rai, lâm râm, lè rè…
- L láy với V: lởn vởn, lảng vảng, lặt vặt…
- L láy với CH: loắt choắt, loạc choạc, lanh chanh, loạng choạng…
- L láy với NH: lăng nhăng, lam nham, lải nhải, lảm nhảm…
- L láy với KH: lom khom, lọm khọm, lụ khụ…
- L láy với NG: lơ ngơ, loằng ngoằng, lêu nghêu…
Trong trường hợp tiếng đang xét ở vị trí thứ hai của từ láy âm, ta lại có một quy tắc khác: L láy âm với các âm khác ngoài GI và âm đầu zêzo mà không láy âm với các âm khác.
Chẳng hạn ta có:
- L láy âm với B: bông lông, bảng lảng, bằng lăng…
- L láy với CH: chói lọi, cheo leo, chìm lỉm…
- L láy với KH: khóc lóc, khéo léo, khét lẹt…
Trong khi đó, N chỉ láy với GI và âm đầu zêzo: giãy nảy, gian nan, áy náy, ảo não…
Mẹo đồng nghĩa lài – nhài:
Khi gặp một tiếng chưa rõ viết với L hay N mà thấy đồng nghĩa với một tiếng khác viết với NH thì có thể kết luận tiếng chưa rõ ấy sẽ được viết với L.
Có thể minh họa mẹo này qua các ví dụ sau:
Lài – nhài, lầm – nhầm, lem – nhem, lời – nhời, loáng – nhoáng, lố lăng – nhố nhăng…
- Lẫn lộn R với D và GI
Người miền Bắc không phân biệt R với D và GI trong phát âm nên thường lẫn lộn chúng trong chữ viết. Có thể dùng một số mẹo đơn giản sau để khắc phụ lỗi này.
Mẹo về âm đệm:
R và GI không kết hợp với âm đệm, chỉ có D mới kết hợp với các vần này. Chẳng hạn như: Dọa nạt, hậu duệ, kiểm duyệt, duy trì, duy nhất… (Trường hợp ngoại lệ roa trong cu – roa).
Mẹo láy âm “Co ro – bịn rịn”:
R láy âm với B và C (K) là những hình thức mà D không có. Ví dụ như: Bịn rịn, bủn rủn, bứt rứt, bối rối, co ro, cập rập…
Mẹo run rẩy – rừng rực:
Những từ láy điệp âm đầu R mô phỏng tiếng động tượng thanh, chỉ sự rung động ở nhiều cung bậc khác nhau, chỉ những sắc thái ánh sáng động, tươi, chói đều viết với R. Ví dụ như: Rì rào, rả rích, răng rắc, rầm rập, róc rách, rúc rích, ra rả, run rẩy, rung rinh, rón rén, rập rình, rạo rực, rần rật, rực rỡ, rừng rực, roi rói, rạng rỡ…
- Lẫn lộn TR với CH
Mẹo thanh điệu trong từ Hán – Việt:
Những từ Hán – Việt mang dấu nặng và dấu huyền đều chỉ đi với TR mà không đi với CH.
– TR đi với dấu nặng: Trịnh trọng, trị giá, trụy lạc, trục lợi, trụ sở, vũ trụ, thổ trạch, trạm xá, hỗ trợ, triệu phú, trận mạc…
– TR đi với dấu huyền: Truyền thống, từ trường, trần thế, trù bị, trùng hợp, phong trào, lập trường, trầm tích, trừng trị…
Mẹo láy âm:
CH láy âm với các phụ âm khác ở vị trí đứng trước hoặc đứng sau, trái lại TR không láy âm đầu với các phụ âm khác, trừ bốn ngoại lệ đều là láy với L: Trọc lóc, trụi lũi, trót lọt, trẹt lét…
– CH đứng ở vị trí thứ nhất: Chơi bời, chèo bẻo, cheo leo, chìm lỉm, chi li, chói lọi, chểnh mảng, chào mào, chộn rộn, chình rình, choáng váng, chờn vờn, chon von, chơi vơi, chót vót, chênh vênh, chạng vạng…
– CH đứng ở vị trí thứ hai: Loắt choắt, lau chau, lanh chanh, lã chã, loạng choạng, lởm chởm, loai choai…