ƠN THẦY
Chuyện kể rằng, ngày xưa có một học Tăng, mỗi tối thường trốn thầy cùng chúng bạn dạo chơi ngoài phố.
Một đêm nọ, vị sư già - thầy của anh ta trong khi kiểm chúng phát hiện vắng mặt một người đệ tử và đồng thời cũng phát hiện một chiếc ghế đẩu mà cậu học trò của mình dùng để trèo qua tường. Không nói một lời nào, vị sư già đem cất chiếc ghế cất đi và đứng thay vào chỗ đó.
Gần sáng, sau khi dạo phố thỏa thích, cậu học tăng theo lối cũ leo tường vào chùa. Phần vì trời còn chưa sáng hẳn, phần vì vội vàng sợ bị phát hiện cậu ta đã đặt chân lên đầu của thầy mình và nhảy xuống đất. Khi biết đợc sự tình, cậu học tăng rất hoảng sợ và bối rối.
Nhưng vẻ mặt của vị Sư già không có chút gì giận dữ mà chỉ nói nhỏ nhẹ rằng: - “Sáng nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm”
Từ đó về sau, vị học tăng ấy không bao giờ dạo phố nữa.
Câu chuyện rất ngắn nhưng lại chứa đựng một triết lý sống vô cùng lớn. Ngày xưa, trong truyền thống giáo dục Phật giáo Nhật Bản, giáo dục nội viện đóng vai trò hết sức quan trọng. Các thiền tăng, khi vào tham học ở các tự viện bắt buộc phải tuân thủ những thanh quy rất nghiêm ngặt ở đó. Mọi sinh hoạt tu học, ăn uống, ngủ nghỉ… của họ luôn luôn tuân theo một thời gian biểu nhất định.
Trong hoàn cảnh đó, phần lớn các thiền tăng đều có rất nhiều cơ hội phát triển nhân cách, đạo đức và giới hạnh giải thoát. Tuy vậy, cũng có một số rất ít các học tăng cảm thấy nhàm chán đời sống tu viện, thỉnh thoảng muốn ra ngoài dạo chơi. Trong trường hợp đó, nếu bị phát hiện, vị thiền Tăng có thể bị kỷ luật nghiêm khắc theo quy định của tự viên, thậm chí bị trục xuất khỏi tu viện và chịu tai tiếng suốt đời. Nhưng ở đây, vị thiền tăng này không lâm vào hoàn cảnh như thế, bởi vì, Sengai - vị sư già trong câu chuyện trên có một phương pháp giáo dục đệ tử rất đặc biệt. Thay vì la rầy, kỷ luật, Sengai chỉ nhỏ nhẹ nhắc nhở học trò của mình bằng câu nói hết sức chân tình: “Sáng nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm”. Câu nói tưởng chừng như ngoài lề nhưng lại biểu hiện rất chân thật và sinh động phong thái của thiền sư. Và chính lời nói đó lại có một năng lực lớn mạnh, chuyển hóa sâu sắc tâm thức của người học trò. Nhờ đó, vị học trò của ông trưởng thành rất nhiều trong nhận thức và tu tập.
Từ đó cho thấy, giáo dục Phật giáo, hay nói cách khác là giáo dục con người giác ngộ luôn luôn đòi hỏi sự minh triết của bậc chân sư. Trong truyền thống giáo dục Phật giáo nói chung và thiền tông nói riêng, vai trò của người thầy đợc xem như nhân tố quyết định trong việc khai mở tuệ giác của học trò. Nói như thế hoàn toàn không có nghĩa chúng ta phủ nhận nhân tố giác ngộ tự thân của người đệ tử mà chỉ hàm ý nhấn mạnh vai trò của người thầy trong việc đa người học trò của mình tiến xa hơn trên con đờng giác ngộ. Trong văn học Thiền, người ta thường minh họa cho ý nghĩa này bằng những hình ảnh rất sinh động. Tại đó, người thầy đợc ví như con gà mẹ ấp trứng, người nông phu trồng cây. Người trồng cây phải biết quán xuyến mọi việc từ cách chọn giống, bón phân cho đến việc xem xét thời tiết, mùa màng… Gà mẹ ấp trứng luôn luôn biết thời cơ cần thiết để mổ trứng giúp cho gà con chui mình ra khỏi lớp vỏ, bắt đầu một cuộc sống mới. Người thầy phải biết căn cơ, duyên nghiệp của người học trò để có phương pháp thích ứng nhằm khai mở tuệ giác của người đệ tử.
Muốn làm đợc điều đó, trước hết người thầy phải có tình thương thực sự đối với học trò của mình. Điều này tưởng chừng như dễ nhưng thực ra rất khó. Bởi vì để hiểu hết tinh thần của khái niệm tình thương trong Phật giáo đã là khó, huống chi trong nhiều trường hợp người ta đã hiểu rõ rồi nhưng chưa chắc đã làm đợc. Như vậy, vấn đề không chỉ ở chỗ chúng ta hiểu mà còn là làm sao cho tình thương đó có mặt thật sự trong đời sống nội viện.
Thứ hai, người thầy phải khế cơ, khế thời. Bởi vì muốn giáo dục có hiệu quả, người thầy cần phải nắm bắt và hiểu rõ tâm sinh lý và nhu cầu của đệ tử qua từng giai đoạn khác nhau trong cuộc đời. Từ đó, theo từng cá nhân, từng giai đoạn mà người thầy có thể chọn lựa những phương pháp hữu hiệu nhất để răn nhắc, dạy bảo. Mọi hành vi nhắc nhở, răn dạy của người thầy đối với học trò chỉ hướng đến một mục đích cao nhất là làm cho đệ tử mình phát triển nhân cách, đạo đức và tâm thức giác ngộ, giải thoát. Ngoài ra, không còn một mục đích nào khác. Như vậy suy cho cùng, vấn đề hoàn thiện nhân cách, đạo đức, giải thoát của con người mới thực sự là mục tiêu của giáo dục Phật giáo nói chung và của từng vị thầy nói riêng.
Ngày nay, theo đà phát triển chung của xã hội, Phật giáo đang có những bước chuyển mình nhanh chóng. Theo đó, nội dung và phương thức giáo dục Phật giáo cũng có những thay đổi nhất định để bắt nhịp với thời đại. Sự thay đổi này vô hình trung đã trở thành một trong những nguyên nhân chính làm thay đổi rất lớn đến đời sống tu tập của nhiều học Tăng. Bởi vì, trong khi áp dụng những thành tựu của nền giáo dục hiện đại, dường như người ta đã không phân biệt rạch ròi giữa mục tiêu giáo dục thông thường với mục tiêu giáo dục mang tính đặc thù của Phật giáo.
Chính vì vậy, hệ quả của nó, dù muốn hay không vẫn đã và đang xảy ra trong đời sống thường nhật và trở thành những vấn đề lớn đợc bàn bạc rất nhiều trong các cuộc hội thảo lớn của Phật giáo.
Chúng ta biết rằng, có rất nhiều người đã đề ra các ý kiến khác nhau nhằm khắc phục tình trạng hiện tại của Phật giáo Việt Nam.
Trong đó, người ta đề xuất xây dựng nên một mô hình giáo dục nội trú và người ta tin rằng với mô hình giáo dục này, chắc chắn giáo dục Phật giáo nước ta sẽ cải thiện đợc tình hình thực tế. Bằng chứng là nhiều tham luận của các thành viên trong các cuộc hội thảo của giáo hội đợc đọc lên giữa các cuộc hội thảo và in thành các tập kỷ yếu, nhiều bài viết gần đây trong các tờ báo Phật giáo đã đề cập đến vấn đề này.
Tuy nhiên, vấn đề không phải nằm ở đây. Vấn đề cốt lõi nhất vẫn là con người và mục đích giáo dục. Làm sao chúng ta có thể đòi hỏi một nền giáo dục nào đó phải như thế này trong khi mục đích ban đầu mà những người đẻ ra nó xác định lại hoàn toàn khác? Làm sao chúng ta có thể đào tạo đợc những con người “khổng lồ” (vĩ đại) trong khi chúng ta còn thiếu những con người làm tiền đề cần thiết cho sự phát triển toàn diện của họ.
Tóm lại, trong bất thời đại nào, trong bất cứ một nền giáo dục nào, người thầy luôn luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp giáo dục con người. Tuy nhiên, người thầy phải có tâm huyết và mục tiêu đúng đắn để định hướng tốt cho các thế hệ kế thừa. Riêng đối với Phật giáo, việc giáo dục con người luôn luôn hướng đến đáp ứng đủ hai phương diện: tài năng và giới hạnh.